Cong thong tin Ban ton giao TP. Can Tho


Chuyên đề Nghiên cứu - chính sách tôn giáo

Hội đồng Giám mục Việt Nam tổ chức Đại hội lần thứ XV – Nhìn lại quá trình hình thành và Phát triển của Hội đồng Giám mục Việt Nam qua các kỳ đại hội

Ngày 06/10/2022 10:37 đăng bởi vantuan

1. Quá trình hình thành HĐGMVN.

Công giáo truyền vào Việt Nam từ năm 1533 đến năm 1934 (sau 4 thế kỷ) Cộng đồng Đông Dương mới họp bàn chính thức về việc thiết lập hàng giáo phẩm ở Việt Nam và sau 26 năm chuẩn bị đến ngày 24/11/1960. Giáo hoàng Gioan XXIII đã ra Sắc chỉ “Venerabilum Nostrorum” về việc xác lập phẩm trật Giáo hội tại Việt Nam. Sắc chỉ được công bố ngày 8/12/1960 với nội dung “…tất cả các địa phận kể trên từ nay sẽ trao cho giáo sĩ triều Việt Nam quản nhậm, ta cũng ban cho các địa phận vừa nói và các địa phận khác đã kể trên, cho các nhà thờ chính tòa cũng như các giám mục lãnh đạo được mọi quyền lợi, danh dự, đặc ân thích xứng. Đối với các giám mục lãnh đạo. Ta còn đặc trọng trách và nhiệm vụ. Tất cả các địa phận trên đây sẽ tiếp tục trực thuộc Thánh bộ Truyền giáo…” [1] Sắc chỉ là cơ sở để hình thành Hội đồng Giám mục điều hành hoạt động của Giáo hội Công giáo tại Việt Nam (GHCGVN), kể từ đây, GHCGVN sẽ do hàng giáo phẩm Việt Nam quản lý, điều hành và là tiền đề để xây dựng vị thế của các giáo sĩ Việt Nam đối với Giáo hội, cũng như việc thành lập HĐGMVN sau này.             

Cùng với việc thành lập hàng giáo phẩm Việt Nam, 03 Tổng giám mục (Hà Nội, Huế, Sài Gòn), các giáo phận cũ từ hiệu tòa nâng lên chính tòa, các giáo phận mới tiếp tục được thành lập (Long Xuyên-1960; Đà Nẵng-1963; Xuân Lộc-1965; Phú Cường-1965; Buôn Mê Thuột-1967), các giám mục Việt Nam tiếp tục được Tòa thánh tấn phong. Trong vòng 15 năm (từ 1960 – 1975) GHCGVN có 35 giám mục được tấn phong trong độ tuổi còn trẻ như: Giám mục Nguyễn Văn Dụ (38 tuổi); Giám mục Nguyễn Kim Điền (40 tuổi); Giám mục Nguyễn Văn Thuận (39 tuổi);…

Việc thành lập củng cố tổ chức và nhân sự, các giám mục Công giáo Việt Nam tăng cường tham gia các diễn đàn Công giáo thế giới như: tham dự Cộng đồng Va ti căng II (1962 – 1965), các khóa họp của Thượng Hội đồng Giám mục thế giới (1967, 1974); tham dự Hội đồng Giám mục Á châu tại Manlia (1970); Liên hiệp Hội đồng Giám mục Á châu tại Hồng Kông (1973) và các hoạt động khác của Giáo hội Rô-ma. Tuy nhiên, do hoàn cảnh chiến tranh xảy ra trên cả 2 miền Nam, Bắc nên đến năm 1975 hoạt động của Hội đồng Giám mục chủ yếu diễn ra ở miền Nam.

Chỉ sau khi chấm dứt chiến tranh, Việt Nam thống nhất các giám mục Việt Nam thấy cần thiết lập Hội đồng Giám mục thống nhất chung trong cả nước. Đầu năm 1980, một hội nghị trù bị được tổ chức tại Tòa Giám mục Hà Nội do Hồng y Giuse Maria Trịnh Văn Căn, Tổng Giám mục Tổng Giáo phận Hà Nội chủ trì chuẩn bị cho Đại hội chính thức và sau đó Đại hội lần thứ nhất các Giám mục Việt Nam diễn ra tại Hà Nội từ ngày 24/4 đến ngày 01/5/1980 với sự tham dự của 33 giám mục. Đại hội đã thành lập HĐGMVN trụ sở đặt tại Tòa Tổng Giám mục Hà Nội, 40 phố Nhà Chung, Hà Nội. HĐGMVN là một tổ chức gồm tất cả các giám mục đang thi hành phận sự mục vụ ở các giáo phận tại Việt Nam và các giám mục hiệu tòa khác đang đảm nhận một nhiệm vụ do Tòa thánh hay HĐGMVN ủy thác.

Mục đích của HĐGMVN là xây dựng Giáo hội Màu nhiệm – Hiệp thông – Truyền giáo và phục vụ con người trong xã hội. nhiệm vụ là cổ vũ sự liên đới giữa giám mục các giáo phận, để phát huy lợi ích cho Giáo hội bằng các hình thức tông đồ và các phương pháp thích hợp với hoàn cảnh của thời đại trong tinh thần gắn bó với dân tộc và đất nước. HĐGMVN vẫn luôn tôn trọng quyền bính của các giám mục giáo phận là quyền thông thường, riêng biệt và trực tiếp [2].

Cơ cấu tổ chức HĐGMVN gồm; Ban Thường vụ, giúp việc cho Ban Thường vụ có Văn phòng. Tổng Thư ký và các Ủy ban Giám mục.

HĐGMVN họp định kỳ 3 năm đại hội một lần và hàng năm có hội nghị thường niên, khi có vấn đề quan trọng HĐGMVN có thể họp hội nghị ngoại lệ do quyết định của giám mục chủ tịch hoặc do yêu cầu của 2/3 các thành viên Ban thường vụ hoặc 1/3 các thành viên của HĐGMVN.

Nội dung đại hội, trao đổi công tác mục vụ, tìm hướng giải quyết các vấn đề chung của Giáo hội, thành lập các Ủy ban Giám mục; soạn thảo lấy ý kiến về quy chế HĐGMVN và các Ủy ban Giám mục, ra các văn bản như thư chung, thư mục vụ, hay thông cáo, các văn bản này phải được Tòa thánh phê chuẩn, các giám mục phải chấp nhận và thi hành, bầu Ban Thường vụ và Chủ tịch các Ủy ban, hình thức bầu bằng phiếu kín. Tất cả các thành viên tham dự đại hội phải giữ bí mật về các vấn đề thảo luận trừ những gì Đại hội đồng ý cho phổ biến.

Văn phòng Tổng Thư ký HĐGMVN gồm có các Giám mục Tổng Thư ký, các giám mục phó Tổng thư ký và các linh mục thư ký. Nhiệm vụ là tham dự các hội nghị của HĐGMVN. Ban Thường vụ và các Ủy ban Giám mục nếu xét thấy cần thiết, soạn thảo chương trình nghị sự của các hội nghị HĐGMVN và Ban Thường vụ. Lập biên bản các hội nghị, lưu giữ hồ sơ của HĐGMVN, liên lạc với các giám mục tại Việt Nam và với các HĐGM thế giới, phổ biến các quyết định của HĐGMVN, phúc trình các hoạt động của Ban Thường vụ trong hội nghị thường niên của HĐGM.

Theo quy chế 3 năm HĐGMVN đại hội một lần và hàng năm có các kỳ hội nghị thường niên. Kể từ Đại hội lần thứ nhất năm 1980 đến năm 2019 là Đại hội thứ XIV của HĐGMVN. Trải qua quá trình hình thành và phát triển HĐGMVN không ngừng trưởng thành cả về số lượng và hoạt động tham gia nhiều hơn vào các hoạt động chung của Giáo hội hoàn vũ, cũng như khu vực châu Á, đăng cai, tổ chức nhiều hội nghị, các hoạt động lớn của Giáo hội, xây dựng GHCGVN ngày một lớn mạnh, chung tay cùng các tôn giáo bạn đóng góp cho sự phát triển của đất nước Việt Nam.

2. HĐGMVN từ Đại hội lần thứ I đến Đại hội lần thứ XIV.

2.1. Ban Thường vụ:

Ban Thường vụ là đại diện của HĐGMVN, có nhiệm vụ thúc đẩy việc thực hiện các quyết định của HĐGMVN, đề ra chương trình nghị sự cho hội nghị của HĐGMVN, bảo đảm tính liên tục trong các đường hướng mục vụ chung của HĐGMVN, giải quyết các vấn đề thông thường giữa các lần hội nghị của HĐGM, tổ chức việc bầu Ban Thường vụ nhiệm kỳ mới [3]. Cơ cấu Ban Thường vụ gồm: Giám mục Chủ tịch, một hay nhiều Giám mục Phó chủ tịch, Giám mục Tổng Thư ký, một hay nhiều Giám mục Phó Tổng Thư ký. Ban Thường vụ họp thường kỳ 1 hay 2 lần trong năm, khi cần có thể họp bất thường, để phiên họp Ban Thường vụ có giá trị pháp lý, cần 2/3 số thành viên hiện diện.

Đại hội lần I (nhiệm kỳ 1980 – 1983). Ban Thường vụ được bầu 7 người, gồm: 01 Chủ tịch (Hồng y Trịnh Văn Căn), 02 Phó Chủ tịch (Tổng Giám mục Nguyễn Văn Bình, Tổng Giáo phận thành phố Hồ Chí Minh và Tổng Giám mục Nguyễn Kim Điền). 01 Tổng Thư ký Giám mục Nguyễn Tùng Cương, giáo phận Hải Phòng) và 03 Phó Tổng Thư ký đại diện cho 3 Tổng Giáo phận: Hà Nội (Giám mục Phạm Đình Tụng); thành phố Hồ Chí Minh (Giám mục Phó Lê Phong Thuận, giáo phận Cần Thơ) và Huế (Giám mục phó Nguyễn Quang Sách, giáo phận Đà Nẵng).

Đại hội lần II (nhiệm kỳ 1983 – 1986): Ban Thường vụ vẫn 7 người như đại hội lần I. Các chức danh Chủ tịch, 02 Phó Chủ tịch và 03 Phó Tổng Thư ký đại diện cho 3 tổng giáo phận vẫn giữ nguyên như Đại hội I. Chức danh Tổng Thư ký thay bằng Giám mục phụ tá Nguyễn Văn Sang (Hà Nội) .

Đại hội lần III (nhiệm kỳ 1986 – 1989). Ban Thường vụ 7 người. Các chức danh Chủ tịch, 02 Phó Chủ tịch, Tổng Thư ký và 02 Phó Tổng Thư ký vẫn giữ nguyên như Đại hội lần II, chỉ có Phó Tổng Thư ký đại diện cho Tổng giáo phận Huế do Giám mục Trần Thanh Chung, giáo phận Kon Tum phụ trách.

Đại hội lần IV (nhiệm kỳ 1989 – 1992); Ban Thường vụ 7 người; Chủ tịch (Giám mục Nguyễn Minh Nhật, giáo phận Xuân Lộc); 02 Phó Chủ tịch (Giám mục Nguyễn Huy Mai, giáo phận Buôn Ma Thuột và Giám mục Nguyễn Văn Sang, giáo phận Thái Bình); 01 Tổng Thư ký (Giám mục Lê Phong Thuận, Giáo phận Cần Thơ) và 03 Phó Tổng Thư ký: Hà Nội (Giám mục Phạm Đình Tụng), thành phố Hồ Chí Minh (Giám mục Huỳnh Văn Nghi) và Huế vẫn là Giám mục Trần Thành Chung.

Đại hội lần V (nhiệm kỳ 1992 – 1995): Ban Thường vụ 7 người, gồm 01 Chủ tịch (Giám mục Nguyễn Minh Nhật), 02 Phó Chủ tịch (Giám mục Huỳnh Đông Các, giáo phận Quy Nhơn và Giám mục Nguyễn Văn Sang), 01 Tổng thư ký (Giám mục Lê Phong Thuận) và 03 Phó Tổng Thư ký như Đại hội lần IV.

Đại hội lần VI (nhiệm kỳ 1995 – 1998). Ban Thường vụ 7 người, gồm: 01 Chủ tịch (Hồng y Phạm Đình Tụng), 02 Phó Chủ tịch (Giám mục Huỳnh Văn Nghi và Giám mục Nguyễn Văn Hòa, giáo phận Nha Trang), 01 Tổng Thư ký (Giám mục Nguyễn Sơn lâm, giáo phần Thanh Hóa) và 03 Phó Tổng Thư ký: Hà Nội (Giám mục phụ tá Lê Đắc Trọng, giáo phận Hà Nội), TP. Hồ Chí Minh (Giám mục Phạm Minh Mẫn) và Huế vẫn là Giám mục Trần Thành Chung.

Đại hội lần VII (nhiệm kỳ 1998 – 2001), Ban Thường vụ 7 người vẫn giữ nguyên như nhiệm kỳ VI. Phó Tổng Thư ký đại diện cho 3 Tổng giáo phận gồm: Hà Nội giữa nguyên, TP. Hồ Chí Minh (Giám mục Nguyễn Văn Nhơn, giáo phận Đà Lạt) và Huế (Giám mục phó Nguyễn Văn Nho, giáo phận Nha Trang).

Đại hội lần VIII (nhiệm kỳ 2001 – 2004), đây là Đại hội mở đầu cho việc đơn giản cơ cấu Ban Thường vụ và bỏ 03 chức vụ Phó Tổng Thư ký đại diện 03 Tổng Giáo phận. Ban Thường vụ từ 7 người xuống 4, gồm: 01 Chủ tịch (Giám mục Nguyễn Văn Hòa), 01 Phó Chủ tịch (Hồng y Phạm Minh Mẫn), 01 Tổng Thư ký (Giám mục Nguyễn Soạn, giáo phận Quy Nhơn) và Phó Tổng Thư ký (Giám mục Ngô Quang Kiệt).

Đại hội lần IX (nhiệm kỳ 2004 – 2007), Ban Thường vụ giữ nguyên như Đại hội lần VIII.

Đại hội lần X (nhiệm kỳ 2007 – 2010), Ban Thường vụ giữ nguyên 4 người gồm: Chủ tịch (Giám mục Nguyễn Văn Nhơn), 01 Phó Chủ tịch (Giám mục Nguyễn Chí Linh, giáo phận Thanh Hóa), 01 Tổng Thư ký (Tổng Giám mục Ngô Quang Kiệt) và 01 Phó Tổng Thư ký (Giám mục Võ Đức Minh, giáo phận Nha Trang).

Đại hội lần XI (nhiệm kỳ 2010 – 2013), Ban Thường vụ giử nguyên như Đại hội X, chỉ thay Tổng Thư ký là Giám mục Hoàng Văn Đạt, giáo phận Bắc Ninh, Phó Tổng Thư ký là Giám mục Nguyễn Văn Khảm.

Đại hội lần XII (nhiệm kỳ 2013 – 2016), Ban Thường vụ gồm 4 người: Chủ tịch (Phó Tổng Giám mục Bùi Văn Đọc, Tổng Giáo phận TP. Hồ Chí Minh), 01 Phó Chủ tịch (Tổng Giám mục Nguyễn Văn Hồng, Tổng Giáo phận Huế), Tổng Thư ký và Phó Tổng Thư ký vẫn giữ nguyên như Đại hội XI.

Đại hội lần XIII (nhiệm kỳ 2016 – 2019), Ban Thường vụ gồm 4 người: Chủ tịch (Giám mục Nguyễn Chí Linh, giáo phận Thanh Hóa), 01 Phó Chủ tịch (Giám mục Nguyễn Năng, giáo phận Phát Diệm), Tổng Thư ký (Giám mục Nguyễn Văn Khảm, giáo phận Mỹ Tho), Phó Tổng Thư ký (Giám mục Vũ Văn Thiên, giáo phận Hải Phòng).

Đại hội lần thứ XIV (nhiệm kỳ 2019 – 2022) diễn ra tại Giáo phận Hải Phòng, Ban Thường vụ Hội đồng Giám mục Việt Nam nhiệm kỳ XIII tiếp tục tái cử; Đức Tổng Giám mục Giuse Nguyễn Chí Linh tiếp tục đắc cử Chủ tịch, 01 Phó Chủ tịch (Giám mục Giuse Nguyễn Năng, giáo phận Phát Diệm, Tổng giám mục, Tổng giáo phận thành phố Hồ Chí Minh); Tổng Thư ký (Giám mục Nguyễn Văn Khảm; giáo phận Mỹ Tho); Phó Tổng Thư ký (Giám mục Vũ Văn Thiên, giáo phận Hải Phòng).

Qua 14 kỳ Đại hội Ban Thường vụ được tinh giảm từ 7 người xuống còn 4 người. Ban Thường vụ thường được phân bổ cho 3 Tổng giáo phận Hà Nội, Huế, TP. Hồ Chí Minh và thường giữ 02 nhiệm kỳ, có trường hợp 03 nhiệm kỳ (3 Đại hội đầu tiên).

Trong 3 tổng giáo phận thì Tổng Giáo phận Hà Nội có nhiều hồng y, tổng giám mục, giám mục giữ chức vụ Chủ tịch (8 Đại hội I, II,III,IV,VII,XI,XIII, XIV) và Tổng Thư ký HĐGMVN (8 Đại hội I,II,III,VI,VII,X,XI,XII); đặc biệt Đại hội XI, XIII và XIV có 3/4 chức vụ trong Ban Thường vụ là các giám mục thuộc Tổng Giáo phận Hà Nội.

2.2. Các Ủy ban Giám mục (UBGM).

Các UBGM do HĐGM thành lập trong các kỳ đại hội và đứng đầu mỗi ủy ban là 01 giám mục. Các UBGM giúp HĐGMVN thi hành trách nhiệm mục vụ trong một lĩnh vực chuyên biệt, chịu trách nhiệm trước UBGM và phải báo cáo đường hướng và sinh hoạt cho HĐGM đề cử và chấp thuận, nhiệm kỳ 3 năm. Mỗi UBGM soạn thảo một nội quy riêng xác định đường hướng nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức nhân sự [4]. Các UBGM sau khi thành lập sẽ triển khai hoạt động ở cấp giáo phận, thành lập ban do 01 linh mục chủ tịch và nhiều linh mục tham gia thành viên.

Đại hội I; thành lập 3 UBGM. UBGM về Phụng tự do Giám mục Bùi Tuần làm Chủ tịch; UBGM về linh mục tu sĩ và chủng sinh do Giám mục Huỳnh Đông Các làm Chủ tịch; UBGM về Giáo dân do Giám mục Phan Thế Hinh làm Chủ tịch.

Từ Đại hội I đến Đại hội lần thứ VI số UBGM vẫn là 3, chỉ thay đổi các Giám mục giữ chức vụ Chủ tịch cụ thể:

Đại hội lần II; UBGM về Phụng tự và UBGM về linh mục, tu sĩ và chủng sinh vẫn giữ nguyên như Đại hội I; UBGM về Giáo dân do Giám mục Phạm Tấn làm Chủ tịch.

Đại hội lần III; UBGM vể Phụng tự do Giám mục Nguyễn Sơn Lâm làm Chủ tịch; UBGM về linh mục, tu sĩ và chủng sinh do Giám mục Nguyễn Văn Hòa làm Chủ tịch; UBGM về Giáo dân vẫn do Giám mục Phạm Tấn làm Chủ tịch.

Đại hội lần IV; UBGM về Phụng tự và UBGM về linh mục, tu sĩ và chủng sinh vẫn giữ nguyên như Đại hội III. UBGM về Giáo dân do Giám mục Phạm Văn Nẫm làm Chủ tịch.

Đại hội lần V; UBGM về Phụng tự và UBGM về Linh mục, tu sĩ và chủng sinh vẫn giữ nguyên như Đại hội IV; UBGM về Giáo dân do Giám mục Nguyễn Văn Nhơn làm Chủ tịch.

Đại hội lần VII; Đại hội này thành lập thêm UBGM về Thánh nhạc do Giám mục Nguyễn Văn Hòa làm Chủ tịch đã nâng tổng số UBGM lên 4 và thay đổi chủ tịch các ủy ban như: UBGM về Phụng tự do Giám mục Phạm Minh Mẫn làm Chủ tịch; UBGM về linh mục, tu sĩ và chủng sinh và UBGM về Giáo dân vẫn giữ nguyên như Đại hội VI.

Đại hội lần VIII; thành lập thêm 5 UBGM gồm: UBGM về Giáo lý Đức tin do Giám mục Bùi Văn Đọc làm Chủ tịch, UBGM về Loan báo Tin mừng do Giám mục Nguyễn Văn Nhơn làm Chủ tịch; UBGM về văn hóa do Giám mục Vũ Duy Thống làm Chủ tịch; UBGM về Bác ái xã hội do Giám mục Nguyễn Thanh Hoan làm Chủ tịch và tách ủy ban về Linh mục, tu sĩ và chủng sinh thành 2 Ủy ban; UBGM về Giáo sĩ và chủng sinh do Giám mục Nguyễn Bình Tinh làm Chủ tịch; UBGM về Tu sĩ do Giám mục Hoàng Văn Tiệm làm chủ tịch, nâng tổng số lên 9 UBGM.

Đại hội lần IX; vẫn giữ con số 9 UBGM; UBGM Giáo lý Đức tin, UBGM về Loan báo Tin mừng; UBGM về Tu sĩ vẫn giữ nguyên như Đại hội lần thứ VIII; UBGM về Phụng tự và nghệ thuật Thánh do Giám mục Trần Đình Tứ làm Chủ tịch; UBGM về Thánh nhạc do Giám mục Tri Bửu Thiên làm Chủ tịch; UBGM về Giáo dân do Giám mục Nguyễn Chí Linh làm Chủ tịch; UBGM về văn hóa do Giám mục Vũ Duy Thống làm Chủ tịch; UBGM về Bác ái xã hội do Giám mục Nguyễn Thanh Hoan làm Chủ tịch, UBGM về Giáo sĩ và chủng sinh do Giám mục Vũ Huy Chương làm Chủ tịch.

Đại hội lần thứ X; thành lập thêm 4 Ủy ban mới bao gồm UBGM về Mục vụ Gia đình do Giám mục Châu Ngọc Trí làm chủ tịch; UBGM về Mục vụ Giới trẻ do Giám mục Vũ Văn Thiên làm Chủ tịch; UBGM về Di dân do Hồng y Phạm Minh Mẫn làm Chủ tịch; UBGM về kinh thánh do giám mục Võ Đức Minh làm Chủ tịch; tách Ủy ban Phụng tự và Nghệ thuật Thánh làm 2 UBGM về Phụng tự và UBGM về Nghệ thuật Thánh do Giám mục Trần Đình Tứ. giáo phận Phú Cường làm Chủ tịch. Nâng tổng số UBGM thuộc HĐGMVN lên thành 14.

Đại hội XI; thành lập thêm 01 UBGM về Công lý và Hòa bình do Giám mục Nguyễn Thái Hợp làm Chủ tịch, đây là UBGM cuối cùng trong cơ cấu chung của Tòa Thánh Va ti căng. Nâng tổng số UBGM thuộc HĐGMVN lên 15 và thay đổi một số Chủ tịch các Ủy ban sau: UBGM về Kinh Thánh do Giám mục Võ Đức Minh làm Chủ tịch, UBGM về Nghệ thuật Thánh do Giám mục Nguyễn Văn Khôi làm Chủ tịch; UBGM về Thánh nhạc do Giám mục Nguyễn Văn Bản làm Chủ tịch; UBGM về Loan báo Tin Mừng do giám mục Nguyễn Năng làm Chủ tịch; UBGM về giáo dân do giám mục Trần Xuân Tiếu làm Chủ tịch; UBGM về Bác ái xã hội do Giám mục Nguyễn Chu Trinh làm Chủ tịch.

Đại hội lần XII; có sự thay đổi chủ tịch một số Ủy ban như: UBGM về Giáo lý đức tin do Giám mục Nguyễn Năng làm Chủ tịch; UBGM Loan báo tin mừng do Giám mục Nguyễn Hữu Long làm Chủ tịch; UBGM về Bác ái xã hội do Giám mục Vũ Đình Hiệu làm Chủ tịch; UBGM về Di dân do Giám mục Nguyễn Chí Linh làm chủ tịch; UBGM về Giáo dục Công giáo do Giám mục Đinh Đức làm Chủ tịch.

Đại hội lần XIII; vẫn giữ nguyên 15 Ủy ban như đại hội lần thứ XII, nhưng có sự thay đổi Chủ tịch một số UBGM như: Giáo lý đức tin do Tổng Giám mục Bùi Văn Đọc làm Chủ tịch thay Giám mục Nguyễn Năng; Mục vụ Di dân do giám mục phụ tá Đỗ Mạnh Hùng, Tổng Giáo phận TP. Hồ Chí Minh làm Chủ tịch thay Giám mục Nguyễn Chí Linh; Ủy ban Phụng tự Giám mục phó giáo phận Bà Rịa Nguyễn Hồng Sơn làm Chủ tịch thay Giám mục Trần Đình Tứ. Ủy ban Giáo dân do Giám mục phụ tá giáo phận Long Xuyên Trần Văn Toản làm Chủ tịch thay Giám mục Trần Xuân Tiếu; ủy ban Mục vụ giới trẻ do Giám mục phụ tá giáo phận Vinh Nguyễn Văn Viên làm Chủ tịch thay Giám mục Vũ Văn Thiên.

Đại hội lần XIV; vẫn giữ nguyên 15 Ủy ban như đại hội lần thứ XIII, nhưng có sự thay đổi 08 Chủ tịch của các UBGM như: Ủy ban Kinh Thánh; Ủy ban Thánh nhạc;Ủy ban Giáo sĩ – Chúng sinh; Ủy ban Tu sĩ; Ủy ban Giáo dục Công giáo; Ủy ban Công lý – Hòa Bình; Ủy ban Mục vụ Gia đình; Ủy ban Mục vụ Di dân; Giám mục Tri Bửu Thiên, Giáo phận Cần Thơ, đặc trách Đối thoại liên tôn và đại kết.

Như vậy, từ Đại hội lần I đến Đại hội XIV, số UBGM được tăng lên. Từ 3 Ủy ban lên 15 Ủy ban. Chủ tịch các ủy ban cũng thay đổi theo xu hướng giao cho các giám mục mới và trẻ.

2.3. Những nội dung chủ yếu trong các kỳ đại hội.

Trong các kỳ đại hội, HĐGMVN thường ra văn bản như Thư chung, Thư mục vụ hoặc Thông cáo định hướng hoạt động cho toàn giáo hội trong suốt nhiệm kỳ.

Đại hội lần I, ra Thư chung 1980, mở ra đường hướng mới trong hoạt động của Công giáo Việt Nam; “Là Hội Thánh trong lòng dân tộc Việt Nam, chúng ta quyết tâm gắn bó với vận mạng quê hương, noi theo truyền thống dân tộc hòa mình vào cuộc sống hiện tại của đất nước. Cộng đồng dạy rằng Hội thánh phải đồng tiến với toàn thể nhân loại và cùng chia sẻ số phận trần gian với thế giới. Vậy chúng ta phải đồng hành với dân tộc mình, cùng chia sẻ một cộng đồng sinh mạng với dân tộc mình, vì quê hương này là nơi chúng ta được Thiên Chúa mời gọi để sống làm con của Người, đất nước này là lòng mẹ cứu mạng chúng ta trong quá trình thực hiện ơn gọi làm con Thiên Chúa, dân tộc này là cộng đồng mà Chúa trao cho chúng ta để phục vụ với tính cách là công dân vừa là thành phần dân Chúa” [5]. Theo các nhà nghiên cứu Thư chung năm 1980 là bước ngoặc lịch sử, đó là sự chuyển mình của Giáo hội dười ánh sáng của Cộng đồng Va ti căng II và trước sự đổi mới phát triển của đất nước. “Thư chung mang đến sự đồng nhất quý giá…”

Đại hội lần II, ra Thư Mục vụ với chủ đề về Năm Cứu độ, đã nhắc lại tinh thần Thư chung 1980 “Chúng tôi cũng mong anh chị em đọc lại Thư chung 1980 của HĐGMVN. Bức thư đó đã đem lại cho chúng ta một niềm tin phấn khởi và giúp chúng ta đạt được nhiều thành tích tốt đẹp cả về hai mặt đạo đời. Chúng ta vẫn tiếp tục bước trên “con đường đã lựa chọn là sống Phúc âm giữa lòng dân tộc để phục vụ hạnh phúc của đồng bào”, góp phần bảo vệ hòa bình và sự sống trên trái đất [7].

Đại hội lần III, ra Thông cáo, tiếp tục tiếp nối nội dung của Thư chung 1980 bằng những chỉ dẫn cụ thể hơn:”Trong nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, chúng ta hãy ra sức đóng góp nhiều hơn  nữa với sự nỗ  lực của mỗi người, cụ thể trong hoàn cảnh đất nước hiện nay. Cúng ta cố gắng lao động tích cực và tiết kiệm hết sức trong mọi lĩnh vực, để làm cho Tổ quốc Việt Nam ngày càng thịnh vượng. Chúng ta vửa là người Công giáo, vừa là người Công dân của nước CHXHCNVN, hai phẩm tính đó không thể mâu thuẫn nhau, nếu chúng ta sống đạo đích thực và có lòng yêu nước chân thành. Chúng ta hãy xin ơn Chúa Thánh Thần soi sáng hướng dẫn để có thể hành động phù hợp với Luật Chúa. Luật Giáo hội và phù hợp với Luật của Nhà nước, đồng thời trung thành với “đất nước này là lòng mẹ cứu mạng chúng ta trong quá trình thực hiện ơn gọi làm con Thiên Chúa” (Thư Chung 1980) [8].

Đại hội lần IV, ra Thư Mục vụ với chủ đề Hiệp nhất. mục vụ và chia sẻ niềm vui, kêu gọi giáo dân bằng những việc làm tích cực, chung tay xây dựng giáo hội và đất nước; “Chúng ta còn biết bao công việc phải làm cho Giáo hội và đất nước. Hãy công tác với nhau để loại trừ những mặt tiêu cực và những tệ nạn xã hội, chăm sóc và bảo vệ về giáo dục thiếu nhi, xây dựng nếp sống lành mạnh và văn minh trong việc cưới xin, tang chế và những việc khác tương tự, tham gia những công trình phúc lợi, xây dựng công ích, phục vụ những người nghèo khó, bất hạnh, kiến tạo một xã hội công bằng, yêu thương và hạnh phúc, nhất là phát huy một nếp sống lành mạnh theo tình thần Phúc âm và truyền thống dân tộc” [9].

Đại hội lần thứ V, ra Thư mục vụ nhấn mạnh đến việc phát huy và hội nhập văn hóa “Đi tìm bản sắc văn hóa dân tộc không có nghĩa là đơn thuần lấy lại những cái cổ xưa, nhưng là làm sao cho tính cách dân tộc được diễn tả trong lời kinh tiếng hát, trong cử hành Phụng vụ, trong cuộc sống hàng ngày cũng như trong suy tư và ngôn ngữ thần học. Công việc này cũng phải được thực hiện trong các dân tộc ít người nữa, sao cho mỗi dân tộc đều giữ được bản sắc của mình trong Hội thánh” [10].

Đại hội lần VI, ra Thư chung kêu gọi giáo dân tham gia đóng góp vào vấn đề phát triển kinh tế của đất nước,”Kinh tế nước ta tuy mới vực dậy còn trăm ngàn vấn đề phải ưu tiên giải quyết nhất định là vô phương lo cho mọi người dân từng cây kim sợi chỉ như thưở hôm nào. Lỗ hổng ấy Chánh phủ luôn khuyến khích người dân tham gia lấp đầy. Thôi thì,”Lá lành tìm lá rách vậy”. Trong đó người Công giáo phải tiến lên hàng đầu. Hãy hợp tác với nhà nước và nhân dân trong chương trình xóa đói giảm nghèo. Hãy tích cực đóng kinh rạch mà nguồn nước bị ô nhiễm. Hãy chung tay góp sức người, sức của để dựng cho dân nghèo, ít là những mái nhà tre lá. Hãy cất lên cho đàn trẻ lang thang những lớp học tình thương sưởi ấm lòng người. Tình thần phục vụ của Chúa Giê su phải là tinh thần của mọi người và mỗi người Công giáo chúng ta” [11].

Đại hội lần VII, ra Thư Mục vụ khẳng định những hành động cụ thể là cơ sở cho việc đối thoại, tôn trọng lẫn nhau.”Chính sự tích cực dấn thân như thế của anh chị em cùng với đồng bào cả nước là cơ sở thực tiễn cho một cuộc sống đối thoại, có khả năng đưa tới sự hiểu biết, tôn trọng và yêu thương nhau giữa những con người Việt Nam, dù có tín ngưỡng hay không, dù theo tôn giáo này hay tôn giáo khác. Yêu thương và hiệp nhất là đặc điểm của Tin mừng Chúa Giê su ki tô và cũng là điểm gặp gỡ sâu xa nhất giữa Tin mừng và văn hóa Việt Nam, một nền văn hóa vốn lấy nghĩa đồng bào và đạo hiếu trung làm nền tảng cho đạo đức xã hội” [12].

Đại hội lần thứ VIII, ra Thư chung nêu lên tinh thần trách nhiệm của giáo hội đối với sự phát triển của đất nước. “Để yêu thương và phục vụ, trước hết ta phải tiếp tục đường hướng đồng hành với dân tộc, đồng cảm, chia sẻ hy vọng và thăng tiến con người. Ta không nhìn những vấn đề kinh tế, chính trị, xã hội, giáo dục như những kẻ đứng ngoài cuộc, nhưng nhận đó là những vấn đề của ta và chủ động đóng góp phần giải quyết, hầu cho mọi người được sống và sống dồi dào. Ta không thể thờ ơ với những chương trình phát triển cũng như tình trạng nghèo đói và những tệ nạn xã hội, bởi vì ta là thành viên của cộng đồng dân tộc với tất cả quyền lợi và nghĩa vụ” [13].

Đại hội lần thứ IX, ra Thư chung với chủ đề Giáo hội Màu nhiệm Thánh Thế. “Sự chia sẻ của chúng ta không chỉ dừng lại nội bộ, nhưng còn hướng ra bên ngoài Giáo hội. Ý thức sự đa dạng của các nền văn hóa và các tôn giáo của mình, và nên có tinh thần cởi mỡ đối với các tôn giáo bạn, tích cực công tác với tín đồ các tôn giáo, với những người thiện chí trong công việc từ thiện và bác ái xã hội” [14].

Đại hội lần thứ X, ra Thư chung với chủ đề Giáo dục hôm nay, xã hội và giáo hội ngày mai.”Sau hết vì luôn là một sinh hoạt gắn liền với một không gian nhất định, giáo dục phải được liên kết với truyền thống văn hóa của không gian ấy. Đặt vấn đề giáo dục Ki tô giáo tại Việt Nam có nghĩa là đặt vấn đề phát huy truyền thống văn hóa Việt Nam. Dân tộc chúng ta luôn tự hào về tinh thần hiếu học, tôn sư trọng đạo. Truyền thống đấy nếu trong quá khứ đã góp phần làm phong phú nền văn hóa Việt Nam và sản sinh những danh nhân làm vẻ vang đất nước, thì nay phải trở thành một trong những tiêu chí của nền giáo dục ki tô giáo tại Việt Nam” [15].

Đại hội lần thứ XI, ra Thông báo về một số vấn đề trong hoạt động tôn giáo.

Đại hội lần thứ XII, ra Thư chung nhấn mạnh đến vấn đề tân Phúc âm hóa, vấn đề này được lồng vào tổng thể kế hoạch mục vụ mà HĐGMVN trình bày trong Thư chung hậu Đại hội Dân Chúa 2010 “Cùng nhau bồi đắp nền văn minh tình thương và sự sống”. Tân phúc âm hóa sẽ được thực hiện trong 3 năm (2014 – 2016), cụ thể năm 2014, Phúc âm hóa đời sống gia đình, năm 2015 Phúc âm hóa đời sống giáo xứ và các cộng đoàn, năm 2016 Phúc âm hóa đời sống xã hội.

Đại hội lần thứ XIII, ra Thư chung gửi Cộng đồng Dân Chúa với 7 mục, nhấn mạnh đến kết quả mà giáo hội đã đạt được trong Năm Thánh Lòng thương xót (chủ đề sống đạo năm 2016); kêu gọi người Công giáo sống trách nhiệm và chia sẻ những khó khăn chung hiện nay của đất nước, nhất là ô nhiễm môi trường, biến đổi khí hậu “mỗi hành động của chúng ta, dù nhỏ bé đều góp phần tích cực hoặc tiêu cực làm lành mạnh hóa hoặc hủy hoại môi trường sống” [16]. Thư chung đã định hướng mục vụ của Giáo hội cho những năm sắp tới với chủ đề Mục vụ gia đình, được thực hiện theo 3 giai đoạn: 2016 - 2017 là chuẩn bị cho người trẻ bước vào đời sống hôn nhân, 2017 - 2018 là đồng hành với gia đình trẻ; 2018-2019 là đồng hành với những gia đình gặp khó khăn. Chủ để này đã bám sát Tông huấn ”Niêm vui của tình yêu” của Giáo hoàng Phanxico ban hành ngày 8/4/2016 sau khóa họp Thượng Hội đồng Giám mục về ơn gọi và sứ mạng của gia đình trong thế giới ngày nay.

Đại hội lần thứ XIV, ra Thư chung gửi Cộng đồng Dân Chúa đặc biệt là các bạn trẻ với 8 mục, nhấn mạnh đến kết quả thực hiện chương trình “Mục vụ gia đình” của ba năm qua giáo hội đạt được đã đem lại nhiều hoa trái cho các gia đình, nhất là các gia đình trẻ gặp kho khăn, cũng như giúp cho người trẻ chuẩn bị bước vào đời sống hôn nhân gia đình, khẳng định đây là mối quan tâm đặc biệt của toàn Giáo hội và để thể hiện mối quan tâm này Thượng Hội đồng Giám mục lần thứ XV họp tại Rôma vào tháng 10 năm 2018 đã bàn về chủ đề “ Giáo trẻ, đức tin và việc phân định ơn gọi”. Hội đồng Giám mục Việt Nam lần thứ XIV chọn chủ đề “Mục vụ Giới trẻ” cho Giáo hội Việt Nam trong ba năm (2020 – 2022) với các chủ đề: Đồng hành với người trẻ hướng tới sự trưởng thành toàn diện (2020); Đồng hành với người trẻ trong đời sống gia đình (2021) và Đồng hành với người trẻ trong đời sống Giáo hội và xã hội (2022) [17].

Như vậy, từ năm 1980 đến nay, định kỳ 3 năm HĐGMVN tổ chức Đại hội (đến nay, đã tổ chức được 14 kỳ Đại hội) thành phần tham gia là Giám mục của 27 giáo phận, đã ra 8 Thư chung, 4 Thư Mục vụ và 2 thông cáo. Nội dung của các văn bản trên đã thể hiện tư tưởng “Canh tân, thích nghi” của Cộng đồng Va ti căng II, sự tiếp nối của Thư chung 1980 với những giá trị lâu dài của một đường hướng mục vụ phù hợp và thích ứng trong bối cảnh hội nhập, bám sát đường hướng của Giáo hoàng và thể hiện trách nhiệm của một tôn giáo để chia sẻ những khó khăn với đất nước.

Vì vậy, Đại hội XV có vai trò quan trọng trong định hướng hoạt động của Giáo hội Công giáo Việt Nam. Đại hội sẽ bầu Ban thường vụ (Chủ tịch, Phó Chủ tịch, Tổng Thư ký, Phó Tổng Thư ký HĐGM), bầu Chủ tịch 17 Ủy ban HĐGMVN, nghe báo cáo Tổng kết hoạt động của các Ủy ban, báo cáo của các giáo phận, hoạt động của HĐGMVN nhiệm kỳ trước và ban hành văn bản Thư chung hoặc Thư Mục vụ của Đại hội định hướng cho các hoạt động của Giáo hội Công giáo Việt Nam trong thời gian tới.

Nhìn lại chặng đường hình thành và phát triển của HĐGMVN từ khi thành lập đến nay, cho thấy một sự phát triển liên tục, ổn định, với những định hướng canh tân, thích nghi đã giúp Công giáo ở Việt Nam ổn định, phát triển. HĐGMVN ngày càng khẳng định vị thế, vai trò quan trọng đối với cộng đồng Công giáo Việt Nam cũng như là thành viên của Công giáo khu vực và thế giới./.

 Tài liệu tham khảo và trích dẫn:

[1] GHCGVN, Niên giám 2004, NXB Tôn giáo 2004, tr.236;

[2] Bộ Giáo luật 1963;

[3[-[4]; Niên giám 2004, GHCGVN, NXB Tôn giáo 2006, tr 281,252,282;

[5] Thư chung HĐGMVN năm 1980;

[6] Kỷ yếu tọa đàm khoa học “Từ Cộng đồng Va ti căng II đến Thư chung 1980”; NXB Tôn giáo 2006, tr.288;

[7] Thư Mục vụ HĐGMVN năm 1983;

[8] Thông cáo HĐGMVN năm 1983;

[9].[10],[11],[12],[13],[14],[15],[16]. Thư Mục vụ HĐGMVN các năm: 1989, 1992, 1995, 1996, 2001, 2004, 2007 và năm 2016;

[17] Thư chung HĐGMVN năm 2019.

                                                                Ths. Phạm Văn Tuấn

TIN ĐÃ ĐƯA